Lê Xuân Hy

1886 - 1953

Cử Nhân Hán Học khoa thi Ất Mão đời Vua Duy Tân -1915 - Đậu năm 28 tuổi

  • Tên hiệu : Duyên Khê
  • : I.1.2.4
  • Ngày giỗ (Âm lịch) : 9/10
  • Mộ táng tại : nghĩa trang Họ Lê, làng Phong Mục, xã Triệu Lộc, huyện Hậu Lộc, tỉnh Thanh Hóa
  • Bằng cấp : Cử Nhân Hán Học khoa thi Ất Mão đời Vua Duy Tân -1915 - Đậu năm 28 tuổi

"Ông Lê Xuân Hy (Cử Hy) tự Duyên Khê (tên ngọn núi ở làng Phong Mục) (1886 -1953)

Ông đỗ Cử nhân Hán học năm Ất Mão 1915 khi 28 tuổi, không xuất chính 

Ông Lê Xuân Hy lấy bà Lê Đại Liễu con gái Tri phủ Đoan Hùng - Lê Ngọc Toản

Ông nghiên cứu y dược học Trung Hoa trở thành thầy thuốc giỏi, chữa bệnh miễn phí cho dân.

Ông và nhiều trí thức xứ Thanh gia nhập Việt Nam Quốc Dân Đảng cùng Nguyễn Thái Học.

Buổi họp đầu tiên của Quốc dân Đảng ông làm Phó Trưởng Ban Tuyên truyền trong Tổng Bộ Lâm Thời và làm Phó Chủ tịch Ban hành pháp Trung ương trong Tổng Bộ lần thứ 3. Ông Nguyễn Thái Học làm Phó Chủ Tịch Ban lập pháp Trung ương

Ông bị Pháp bắt giam 5 tháng tại Hỏa Lò, Hà Nội, sau đó bị đày đi Côn Lôn 5 năm và 5 năm quản thúc

Vào mùa Thu năm 1945 ông bị bắt giam 3 tháng

Năm Quý Tỵ 1953 sau thời gian giam cầm và tra tấn tại nhà lao Hà Lũng, Hà Trung, Thanh Hóa ông mất tại đây vào ngày 9/10 âm lịch, không kịp hưởng lệnh sửa sai của ông Hồ.

Sau khi mất ông Lê Xuân Hy được chôn cất tại nhà lao Hà Lũng, đến năm 1956 (sau 3 năm) con gái đầu của ông bà Lê Thị Ơn đã đưa mộ bố về quê chồng làng Đan Nê, Yên Định, Thanh Hóa trong khu nghĩa trang họ Trịnh. 

Đến năm 1996 theo nguyện vọng của con trai cả Lê Duy Hồng, con gái Lê Thị Phan, cháu ngoại Trịnh Duy Tuân và ông Lê Văn Thới đã đưa mộ ông từ Đan Nê về làng Phong Mục như ngày nay.  Trên đây là những ghi chép của ông Lê Duy Hồng con trai cả của ông Lê Xuân Hy.

Theo thông tin từ Trung tâm lưu trữ quốc gia 1 (Dịch từ tài liệu của mật thám Pháp) về vai trò của ông Lê Xuân Hy như sau: "Cuộc họp ngày 01/01/1929 của Việt Nam Quốc dân Đảng diễn ra tại phố Charron kéo dài (phố Mai Hắc Đế - Hà Nội ngày nay). Đây là cuộc họp của Ban Hành pháp và Lập pháp. Ban Hành pháp do ông Nguyễn Khắc Nhu chủ trì, Lê Xuân Hy là Phó chủ tịch. Ban Hành pháp do Nguyễn Thế Nghiệp làm Chủ tịch, Lê Văn Phúc là Phó chủ tịch. Nguyễn Khắc Nhu đọc diễn văn nói về tình hình đất nước bị quân Pháp chiếm đóng, mọi tự do bị bóp nghẹt, do đó đảng phải sử dụng mọi sức mạnh để phát động cách mạng. 

Trong đó, nhiều câu hỏi được đưa ra trong chương trình nghị sự liên quan đến vấn đề tài chính như việc gửi 2.000 đồng cho Nguyễn Thái Học và Tú Tiềm đang ở Trung Quốc. Nguyễn Thế Nghiệp giải thích về các quy chế liên quan đến việc phân chia Tổng bộ thành hai ban. Mục đích của biện pháp này là dẫn tới nguyên tắc phân chia quyền lực. Ngoài ra, các quyết định khác được xem xét kỹ lưỡng… Chương trình nghị sự do Chủ tịch ban Lập pháp đưa ra gồm:

1. Xem xét học thuyết Tam dân.
2. Xem xét các kỷ luật. Ông Nguyễn Thế Nghiệp cũng trình bày một số vấn đề khác như: Quy chế quy định cách thức hợp tác giữa hai ban, xem xét tình hình của khách sạn, các khoản vay cần tiến hành... Ông cũng nói về chuyến đi sắp tới của Toàn quyền Đông Dương cũng như các vấn đề xoay quanh chủ đề này. Ông Hoàng Văn Tùng cho biết đã xem xét đến vấn đề đó, nhưng cần giữ bí mật ở mức cao nhất có thể, ngay cả trong các cuộc họp của đảng.


Vừa trở về từ Nam Kỳ, Nguyễn Ngọc Sơn, đã báo cáo kết quả của các hoạt động tuyên truyền, những kết nối liên lạc với Nguyễn An Ninh, Trần Nguyên Phú và Nguyễn Đinh Kiêm".

Ngày 02 và 03/07/1929 Tòa Đại hình Bắc Kỳ đưa ra nhiều mức án khác nhau, ông Lê Xuân Hy bị kết án 5 năm từ giam cùng các đồng chí của mình: "Hoàng Phạm Trân (tức Nhượng Tống), Lê Xuân Hy (tức Cử Hy), Nguyễn Văn Năng, Trần Văn Môn, Đặng Xuân Tiếp, Phạm Hữu Phùng, Nguyễn Công Riêu (Ngọc), Hoàng Hồ, Lê Văn Chu, Đoàn Mạnh Chế, Trần Bích, Phạm Duy Kiêu (tức Hàn Kiêu), Nguyễn Danh Doi, Đặng Đình Hướng, Nguyễn Văn Đàm..."